KHI VÒNG THÁI TUẾ CHI PHỐI MỆNH - THÂN PHẦN 2
TƯƠNG QUAN MỆNH, NHỊ HỢP, XUNG CHIẾU
Để bàn về phạm vi này, cần đề cập tới mối liên hệ biểu kiến và nội tại cũng như xét qua lại vòng Thái Tuế ứng dụng vào sự tìm hiểu mặt trái ở đời so với cung Nhị-Hợp, cung Chính chiếu. Ngoài ra để dễ áp dụng hơn, tôi xin đan cử vài thí dụ điển hình.
A- TÍNH TÌNH BIỂU KIẾN VÀ NỘI TẠI
Không phải ai cũng “ruột liền da”, “da liền ruột”, mà trái lại phần lớn chúng ta lại gặp nhiều hạng người như ruột gà. Nói rõ ra là, tính tình mà chúng ta nhận thấy ở họ qua sự biểu lộ hằng ngày, không hẳn là đích thực tình trạng bên trong của họ. Đó cũng là một hiện tượng ý nghĩ tương phản với lời nói. Hai trạng thái hướng ngoại biểu hay Biểu kiến (Apparence) và Nội Tại (Interieur), sẽ được phơi trần ra trước ánh sáng của Vòng Thái Tuế và cung Nhị Hợp, Chính chiếu. Nhờ vậy, cũng cùng một lời nói ta có thể phân biệt hai hạng người : “Khẩu Phật Tâm Xà” hoặc “Khẩu Xà Tâm Phật”.
Xem thêm: Xem quẻ Kinh Dịch
1- Biểu kiến (Apparence)
Qua Vòng Thái Tuế ở cung Mệnh, cá tính một người hiện ra một cách ngoại biểu đối với người coi số cũng như trên thực tế mọi người cũng nhận ra cá tính thường nhật của người ấy. Ngoài ra, Vòng Thái Tuế còn có tác dụng mang lại thêm các dữ kiện mới khi nó phối hợp với cung chính chiếu. Thực vậy thế Tam-Hợp của bản cung khi so sánh với thế Tam-Hợp của đối cung, cho ta nhận rõ ra tinh thần một người có lạc quan hay bi quan trước cuộc sống, trước hoàn cảnh ở đời.
Trong bản số của Vua Quang Trung Đại Đế, Vòng Thái Tuế đã chứng giải tinh thần tự tôn của ngài tự coi mình có trách nhiệm “Thế Thiên Hành Đạo” đem lại an bình cho đất nước, đánh đuổi ngoại xâm (Thái Tuế đóng ở Mệnh). Ngoài ra thái độ dũng mãnh, xem thường đối phương cũng như bách chiến bách thắng của ngài cũng phần nào được biểu lộ qua thế Thủy của Tam Hợp Mệnh thắng thế Hỏa của Tam Hợp Thiên Di (Mệnh lập tại cung Thân thuộc Tam Hợp Thân Tý Thìn tức thế Thủy; Thiên Di ở Dần tức thế Hỏa do Tam Hợp Dần Ngọ Tuất).
2- Tính tình tiềm ẩn (Virtuel)
Sự ngoại biểu do vòng Thái Tuế, là nguồn căn cho mọi việc. Ở đây cung Nhị-Hợp cung Mệnh sẽ đóng vai trò tinh thần, dù là tiềm ẩn hay nội tại của tình trạng của vòng Thái Tuế ở Mệnh nó là nội tâm của một người, là nỗi lòng thầm kín là khuynh hướng về một mục tiêu nào. Không những chỉ ghi nhận điều trên, cung Nhị Hợp còn cho biết mức độ cũng như sự thiệt thòi, hy sinh hay sự được giúp đỡ, bị người khác hại. Và cũng do định luật Tam Hợp với thế Ngũ Hành giữa hai cung Mệnh và cung Nhị-Hợp mà dàn ra thế trận. Sinh xuất hay sinh nhập cung Mệnh, luôn luôn theo theo nguyên tắc “Mệnh vi chủ”, cung Mệnh luôn luôn là chủ, các cung khác nói chung và cung Nhị-Hợp nói riêng phải là khách. Do đó, Mệnh được sinh nhập mới được điều phúc lợi.
Thí dụ: Mệnh ở cung Tý có Quan Phù, thủ Mệnh, cung Nhị-Hợp là phụ-Mẫu ở cung Sửu. Ta thấy về phương diện nội tại hàng xóm, thân cận, đương số được cha mẹ bao bọc, cưng chiều, giúp đỡ. Do bởi căn nguyên là sự khôn ngoan, lời nói lễ phép dè dặt (đặc tính của Quan Phù) mà được hưởng phúc này.
Trong phần A này, tôi chỉ nói phớt qua khi đề cập thế Tam Hợp Mệnh và Di cũng như thế Tam Hợp Mệnh và Nhị Hợp, bởi vì cụ Thiên Lương đã giảng rõ về điểm này. Những điểm trọng yếu chính là sự ngoại biểu (biểu kiến) và nội tại (tiềm ẩn), chưa được ai đề cập tới, đó mới là mẫu chốt của phần A mà đã trình bày ở trên. Tiếp dưới đây vì khái niệm vòng Thái-Tuế chưa được khai triển rộng ra theo khoa Tâm Lý Học, nên tôi xin mạn phép được nêu ra, mặc dầu cụ Thiên Lương đã tiên phong nêu ra trong vấn đề này
Xem thêm: SAO HÓA LỘC
B- VÒNG THÁI TUẾ VÀ TÍNH TÌNH MỖI CÁ NHÂN
Cần ghi rằng sao của vòng Thái-Tuế chỉ luận giải về phương diện tư tưởng ngay chính hay không, đối với cung Mệnh mà thôi. Còn ở các cung số khác, kể cả cung Thân. Đây là một điểm cần nhấn mạnh để khỏi lầm lẫn khi phân tích chiều sâu của một người. Theo thiển ý vòng Thái-Tuế cần phân tích ra hai trạng thái từ Tĩnh tới Động, Tĩnh trong Động, Động trong Tĩnh. Phương diện Tĩnh trạng tượng trưng cho tư tưởng, tính tình hoặc tinh thần qua vòng Thái-Tuế ở Mệnh. Động trạng là bình diện cần an bài đúng vị thế Thân là hành động. Do đó, theo kẻ viết bài này, vòng Thái-Tuế ở Mệnh nói lên riêng về tư tưởng (Tĩnh trạng chứa thế Tĩnh nguyên thủy) và trong nguyên lý dịch học thì Tĩnh mà Động, vì thế tư tưởng là Tĩnh thuần được diễn tả qua thế Động là lời nói, thái độ, hành động. Xin được sắp xếp 12 sao của vòng Thái-Tuế theo tiêu chuẩn vừa nêu:
1- Thái Tuế
Người có tư tưởng tự tôn, theo lý tưởng ngay chính, nghiêm nghị, tự cho mình cả Thiên Mệnh để thi hành. Do đó thường cảm thấy không ai xứng với mình về phương diện tư cách, hoài bão.
ý nghĩa trên phát xuất từ, từ ngữ “ngôi Thái-Tuế”, tượng trưng cho ngôi vua, là bậc cao cả, là Thiên Tử, là con Trời, thay Trời cai trị muôn dân. Vua ở xa dân, ngay cả quần Thần cũng vậy, vua cũng có lối sống riêng biệt do lễ nghi quan cách. Vì vậy người có Thái Tuế ở Mệnh, thường cảm thấy cô độc, ít kẻ tri kỷ tri bỉ.
2- Bạch Hổ
Tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là phải chính nghĩa của mình. Người có Bạch Hổ tọa thủ tại Mệnh, thường dễ làm mất lòng người khác, vì “lời thật mất lòng”. Nhưng nếu miếu địa “Hổ khiếu Tây Phương” (Bạch Hổ ở Dậu) thì dù lời nói thẳng nhưng rất có uy tín, làm kẻ khác nể sợ.
3- Quan Phù
Tính chất Quan Phù ở Mệnh, mang lại cho người có nó, một sự khôn khéo, biết tiến thoái đúng thời, đúng lúc mà vẫn không mất tư cách ngay thẳng chính trực của mình. Đó mới là điểm khó khăn, ít người dung hòa được. Người có Quan Phù thủ Mệnh, rất giỏi lý luận, “biết người biết ta”; nên rất tế nhị, thích chinh phục người khác bằng tư tưởng chính phái của mình.
Xem thêm: THẦY XEM TỬ VI CHUẨN Ở HÀ NỘI, ĐÁNG ĐỒNG TIỀN BÁT GẠO
4- Thiếu Dương
Thiếu Dương là “Tùy tinh”, mang tính chất của sự biến dịch của Tứ Tượng, Bát Quái. Cho nên vị thế của nó rất đặc biệt, tuy sáng suốt nhưng là một thứ sáng suốt dễ sa chân vào hố sâu, cần có nghị lực của bậc siêu phàm mới sử dụng được nó.
Trước tiên nếu nó đồng cung hay chính chiếu với Hồng Loan, như các cụ Hoàng Hạc, Thiên Lương đã lập đi, lập lại nhiều lần trên Báo KHHB, tôi chỉ xin thu gọn lại, nó có đặc tính vị tha, quên mình, bỏ cái Ta đi để gánh vác việc đời (Xem lại lá số Đức Phật Thích Ca trong quyển Tử Vi Nghiệm Lý của cụ Thiên Lương đã bình giải).
Ngược lại, nếu nó đi với Đào Hoa thì trở nên vị kỷ, thường chỉ nghĩ đến mình, vì mình tất cả. Còn vị trí Thiếu Dương, Thiên Không ở Tứ Mộ thì phần lớn hay ít dở nhiều, tuy nhiên cũng có vài trường hợp ngoại lệ (sẽ đề cập trong một phần khác).
Tóm lại người mang cá tính của Thiếu Dương dù vị kỷ hay vị tha do ảnh hưởng của Đào, Hồng cũng là là người rất sáng suốt hơn người, thích được hơn người, vượt lên trên mọi người. Đặc tính này cũng không dành riêng cho ai, dù vị tha như Đức Phật, cũng là một ý chí muốn khác hẳn mọi người thế tục. Chẳng thế mà Ngài đã từng thốt ra câu : “Thiên Thượng Địa Hạ, vô ngã độc tôn” đấy ư !!!
5- Phúc Đức
Cũng nằm trong Thế Tam Hợp của Thiếu Dương, nên âm hưởng của sao này đem lại cho người mang nó một sự sáng suốt hơn người nhưng dù sao tính tình vẫn giữ chứ Đức làm đầu.
Người có sao Phúc-Đức là người thích vươn lên với đời, trong sự sòng phẳng tương quan đổi chác, song phương hưởng lợi, không bán cây sống, trồng cây chết.
6- Tử-Phù
Không như hai sao Thiếu-Dương, Phúc-Đức, vì thế sao Tử-Phù tuy cũng sáng suốt nhưng là thứ sáng suốt để lừa lọc người với tính tình ma mãnh, dám làm điều sai quấy nếu có dịp vì từ lời nói tư tưởng tới hành động đối với hạng người này cách nhau không xa.
7- Trực Phù
Do tính chất của Địa Chi, thế vòng Trực Phù này bị sinh xuất hoặc khắc xuất. Do đó nhóm Trực Phù, Long Đức, Thiếu âm là nhóm chịu nhiều thua thiệt ở đời (sẽ xin trình bày rõ hơn trong bài sử dụng 4 chữ: Can, Chi, Mệnh, cục), vì thế trong tương quan của thế Tam Hợp thì phải chịu nhiều thiệt thòi, nhưng riêng về vị thế Trực Phù thì cá biệt mà nói, người mang tư cách này thường trong công việc không được đãi ngộ tương xứng với khả năng của mình.
8- Long Đức
Tùy cùng chi phái với Trực Phù nhưng cũng như Phúc Đức, vị thế Long Đức còn chịu sự chi phối của nhóm Tứ Đức. Vì vậy, dù thua thiệt, người Long Đức thường hiền hậu, an phận không thích mạo hiểm bon chen, đôi lúc cũng thụ động quá mức mà đưa đến bi quan.
9- Thiếu âm
Là vị thế chót của vòng Trực Phù, nhưng cũng nằm trong chu trình tiến hóa của Dịch lý và tương phản với thế Thiếu Dương. Bởi vậy, người Thiếu âm thường bị thiệt thòi, do quan niệm chủ quan, lắm lúc tự lừa dối mình. Quá hiền hậu, hoặc hào phóng quá, dễ tin lời người khác nên trở nên khờ dại (đối nghịch với Thiếu Dương là sáng suốt).
10- Tang Môn
Có người cho rằng thế Tang Môn phải ghép đôi với thế Bạch Hổ và ngược lại, vì đó là cặp trong Lục Bại. Thực ra nếu luận theo lẽ biến dịch Ngũ Hành giữa 12 cung số với ý nghĩa của các cung Nhị Hợp, Tam Hợp, Chính Chiếu, hoặc Giáp cung thì sẽ không lạ gì có sự phân cách riêng biệt từng cặp sao, dù là một bộ. Chẳng hạn như bộ Tang-Hổ, bộ Song Hao, bộ Tướng-Binh, bộ Lưỡng Thế …. Cụ Thiên Lương đã giải thích rõ về vấn đề cung Thiên Di, không hẳn thuộc về mình mà tùy vị thế của nó. Đồng mà Dị là cụ Hoàng Hạc cũng quan niệm cung Thiên Di không là của mình, nhưng là hoàn cảnh, là sự xung xát, sự cọ nhau mà thành theo tương quan lý học. Là hậu sinh, nhưng kẻ này xin sẽ có bài nối tiếp về vấn đề này để có tầm áp dụng rõ hơn về âm Dương Ngũ Hành của Lý Học vào Tử Vi.
Trở lại vị thế Tam Hợp của vòng Tang Môn, Điếu Khách, Tuế Phá là vị thế đối nghịch hoàn toàn của Tam Hợp tuổi. Chính đây là một điểm xung sát mà tạo thành. Thời thế tạo Anh Hùng hoặc Anh Hùng gây dựng nên thời cuộc, là do sự biến ảo ở mấu chốt này.
Cá biệt về sao Tang Môn cho thấy người có sao này, thường gánh nhiều mối ưu tư, phiền toái, nhiều mối bận tâm (Xem lại số Khổng Tử mà KHHB đã đăng). Nếu diễn giảng ra theo lối suy luận, thì dù bất cứ việc lớn, việc nhỏ vì sự lo lắng của mình, người này không thích đùa giỡn cũng như không thích ai bỡn cợt với mình. Và trong tâm trạng “suy bụng ta ra bụng người đó” hay nói cho đúng hơn là trong tâm trạng “điều gì mình không muốn người khác làm cho mình thì mình không nên làm đối với người khác” người này trở nên tế nhị, dè dặt.
11- Điếu Khách
Khoác lên mình một gánh nặng chống đối mọi việc ở đời, người có Điếu Khách, thường thích đả kích người khác, thích tranh luận, bàn cãi, thích thuyết phục người khác. Vì thế mà nhiều sách đã không ngần ngại khi đem gán cho những người có sao Điếu Khách (Mã Khốc Khách) là sẽ làm nghề ngoại giao, môi giới, luật sư … cũng không ngại ngùng gì mà gán cho những Thẩm Phán, Luật Sư là những người có sao Quan Phù thủ Mệnh, Thân. Đành rằng sự gán ép này có những căn bản riêng của nó nhưng về nghề nghiệp là cả một sự phức tạp, còn lệ thuộc vào nhiều yếu tố, không phải chỉ đơn thuần ở vòng sao Thái Tuế mà thôi.
12- Tuế Phá
Cũng tương tự đặc tính của Điếu Khách, nhưng ở đây người Tuế Phá là một nét dị biệt, một trạng thái của một sự đối lập, một sự chống đối, thích đi ngược người khác. Có thể làm những việc phi thường nếu được thêm vài yếu tố ở hành động (Thân).
Xem thêm: Xem lá số Tử Vi trọn đời
C- VÀI VÍ DỤ ÁP DỤNG THỰC TẾ
1- Người có Bạch Hổ ở Mệnh, tại Dậu, Nhị Hợp là cung ách ở Thìn, Thiên Di ở cung Mão. Chỉ cần biết được vài yếu tố nhỏ như trên, chúng ta có thể phác họa ra bề mặt và bề sâu của tâm hồn một người. Như đã trình bày ở trên (qua hai yếu tố biểu kiến và nội tại mà ta gọi giản dị hơn là bề ngoài và bên trong tiềm ẩn) ta có thể lược giải khái quát về tánh tình của đương số như sau :
a- Bên trong: Người lúc nào trong lòng thường lo lắng nhiều về những bất trắc ở đời. Nhiều khi quá bận tâm về hậu quả của một việc mình làm dù việc này không có gì đáng để tâm. Mệnh sinh xuất cho ách về vấn đề Nhị Hợp này xin coi lại Kinh nghiệm cung Nhị Hợp của cụ Thiên Lương trong cuốn Tử Vi nghiệm lý. Người viết chỉ xin đề cập vài ý kiến mới chưa ai đề cập tới mà thôi.
b- Bên ngoài: Bề ngoài tính tình có vẻ sắt đá, nóng nảy, gan lì với hậu thuẫn là chính nghĩa, lẽ phải của mình, coi thường đối phương.
Tổng kết lại, dù bên trong có e dè nhưng khi giới hạn e dè đã bị vượt qua thì người này dám làm bất cứ việc gì, bất chấp hậu quả với niềm tin vào lẽ phải của mình, coi thường đối phương.
2- Mệnh có Tang Môn ở cung Tuất, Nhị Hợp là Nô Bộc ở cung Mão, Thiên Di ở cung Thìn thì sơ lược khát quát như sau :
a- Bên trong: Đương số thích được bạn bè hiểu mình, thích được người khác chiều chuộng mình, vị nể mình.
b- Bên ngoài: Mang tâm trạng tế nhị, người nặng mối lo, có nhiều mối bận tâm, không thích những trò đùa rắn mắc. Do đó đương số dễ mang nét ưu sầu trên gương mặt. Người bi quan trước cuộc sống, thường thấy mình dễ đầu hàng hoàn cảnh (thế Di lấn lướt thế Mệnh).
Những dòng ghi trên, đó chỉ là tạm thời vạch ra nét tương quan Mệnh, Nhị Hợp, Xung chiếu. Nhưng cần đề cập đến vai trò của THÂN trong sự sắp xếp vòng Thái Tuế. Đó là Phần II của bài này, mà tôi trình bày dưới đây.
Nhận xét
Đăng nhận xét